Đông châu liệt quốc - Hồi 001

Đông châu liệt quốc - Hồi 001

Nghe trẻ hát, tôi trung bị giết
Trải lòng ngay, Ðỗ Bá thác oan

Ngày đăng: 14-02-2017
Tổng cộng 108 hồi
Đánh giá: 9.4/10 với 189594 lượt xem

Tiểu thuyết trường thiên của Trung Hoa xuất hiện ở đầu đời nhà Minh , với bộ "Tam Quốc diễn nghĩa" , rồi đến bộ "Thuỷ Hử truyên" , rồi đến bộ "Tây Du Ký" .Ðến năm Gia Tĩnh thì xuất hiện bộ "Liệt quốc chí truyện" của Dư Thiệu Ngư gồm 8 quyển , 226 tiết , bắt đầu từ khi vua Trụ (nhà Thương) lấy Ðát Kỷ , đến khi nhà Tần thống nhất Trung Hoa .
Sau đó vào cuối đời Minh , Phùng Mộng Long cải bộ "Liệt quốc chí truyện" , đổi tên là "Tân liệt quốc chí" , dài 108 hồi , bắt đầu từ đời Tuyên vương nhà Chu , cho đến đời Tần Thủy Hoàng .
Vào khoảng đời Kiến Long nhà Thanh xuất hiện bộ "Ðông Chu liệt quốc chí" . Bản này dựa vào bản "Tân liệt quốc chí" mà sửa đổi lại chút ít và thêm vào rất nhiều những lời phê bình , chú thích của Sái Nguyên Phong .
Năm 1995 , Nhà xuất bản Tác gia ở Bắc Kinh (Trung Hoa) phát hành bộ "Ðông Chu liệt quốc chí" dựa vào bản của Phùng Mộng Long . Những chỗ nào Sái Nguyên Phong sửa chữa "Tân liệt quốc chí" một cách sai lầm thì nhà xuất bản Tác giả khôi phục lại bản cũ , còn những chỗ nào mà cả Phùng Mộng Long và Sái Nguyên Phong đều sai lầm thì nhà xuất bản Tác giả đính chính lại một cách thận trọng .
* *
"Ðông chu liệt quốc chí" bao gồm một thời kỳ lịch sử dài hơn 400 năm (thế kỷ VI, V, IV, III trước công nguyên). Thời kỳ ấy bắt đầu từ khi Bình vương nhà Chu dời đô sang phía Ðông và kết thúc với cuộc thống nhất của Tần Thủy Hoàng . Sử cũng gọi thời kỳ ấy là đời Ðông Chu (chia làm hai giai đoạn là Xuân thu và Chiến quốc). Trong lịch sử Trung Hoa , đó là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến phân quyền đến chế độ phong kiến tập quyền (có một thuyết cho rằng đời Xuân thu còn ở trong chế độ nô lệ) . Phùng Mông Long căn cứ chủ yếu vào các sách "Tả truyện" và "Quốc ngữ" của Tả Khâu Minh và sách "Sử ký" của Tư Mã Thiên và có tham khảo các sách "Công dương truyện" , "Chiến quốc sách" và hơn mười bộ sử khác nữa , để biên soạn Ðông Chu Liệt Quốc chí "Sử
* *
Tư tưởng toát ra trong suốt bộ tiểu thuyết này là tư tưởng "dân bản" của nhà nho : dân là gốc của nước , là sức mạnh của nước ; không phải vũ lực quyết định sự thành công hay sự thất bại mà chính là lòng dân . Trong truyện , những bậc anh hùng cứu nước (Huyền Cao , Tín Lăng quân , Lạn Tương Như , v.v...) những nhà trí thức chính trực (Ðổng Hồ , Lỗ Trọng Liên , v.v...); những người chấp chính có nhiệt tình với dân với nước (Quản Trọng , Tử Văn , Tôn Thúc Ngao,v.v...) đều được tác giả nhiệt liệt ca ngợi và đề cao .
Mặt khác , tác giả miêu tả không dè dặt , không nể nang , cái bản chất xấu xa , bỉ ổi của giai cấp thống trị . Những mâu thuẫn sâu sắc giữa các tập đoàn thống trị , sự tranh giành quyền lợi giữa các cá nhân , gây nên vô số những cuộc chính biến và những cuộc tàn sát trong hơn bốn thế kỷ . Cũng không sao nói hết được sự dâm loạn vô sỉ ở chốn cung đình : quan hệ nam nữ bậy bạ giữa anh em ruột , giữa bố chồng và nàng dâu , con chồng và thứ mẫu ,v.v... (Tề Khương công và nàng Văn Khương , Vệ Tuyên công và nàng Tuyên Khương , Tấn Hiền công và nàng Tề Khương , v.v...) đều được tác giả kể lại và có thái độ phê phán . Sự ngu xuẩn của bọn thống trị thì được biểu hiện trong những nhân vật điển hình là Tống Tương công (dựng cờ nhân nghĩa , không chịu đánh giặc trong lúc giặc đang qua sông) , Vệ công (cho hạc làm quan) , Yên Khoái (bắt chước Nghiêu , Thuấn nhường ngôi) v.v... Tuẫn táng là một tập tục vô nhân đạo do sự ngu xuẩn của bọn đế vương sinh ra : Tề Hiều công chôn sống hơn hai trăm nội thị và cung nhân , để cho cha mình (chết rồi) có người hầu hạ ở dưới đất ; 177 người dân , trong đó có những người ưu tú (Tam Lương) cũng chịu một số phận như vậy ở đất Ung , táng địa của Tần Mục công ; Ngô vương Hạp Lư đánh bẫy hơn một vạn nam nữ để tuẫn táng cho con gái chết yểu của mình là Thắng Ngọc .
Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ , thì do sự hạn chế của thời đại , Phùng Mộng Long cũng không tránh khỏi những quan điểm tiêu cực , lạc hậu .
Ở "Ðông chu liệt quốc" , tư tưởng chính thống và định mệnh rất phổ biến . Vua nhà Chu làm thiên tử là do mệnh trời , cho nên những nước chư hầu nào xưng vương đều bị coi là "tiếm" . Ðó là tư tưởng chính thống , xây dựng trên quan điểm định mệnh .
"Ðông Chu liệt quốc" cũng đề cao "trung hiếu tiết nghĩa" phong kiến . Chữ "trung" ở đây là sự trung thành tuyệt đối của kẻ làm tôi , làm dân đối với cá nhân thiên tử là người được coi như chịu mệnh trời để cai trị thiên hạ . Trong "Ðông Chu liệt quốc" không thiếu gì chuyện vua bắt kẻ làm tôi phải chết , kẻ bề tôi phải vui lòng chết theo để được tiếng là "trung" . Chữ "hiếu" cũng cùng bản chất với chữ trung vì thiên tử được coi như là cha mẹ dân . Công tử Thọ và Cấp Tử nước Vệ vui lòng chết để khỏi trái đạo "hiếu" đối với một người cha tàn ác , bất công . Chữ "trinh" chữ "tiết" cũng được quan niệm một cách hẹp hòi , biểu hiện một quan hệ phụ quyền rất chặt chẽ . Người con gái nước Sở giặt vải ở bờ sông Lại Thủy đã nhảy xuống sông chết chỉ vì đã "trót" nói chuyện và cầm nắm cơm đưa tận tay cho Ngũ Tử Tư là một người trai nước Sở đương lánh nạn . Chữ "nghĩa" thì thường thường được xây dựng trên cơ sở ân oán cá nhân . "Sĩ vị tri kỷ giả tử" kẻ sĩ phải lấy cái chết đạ đền ơn người biết mình , nếu không thì không đáng gọi là kẻ trượng phu . Dự Nhượng huỷ hoại cả thân thể mình để đi báo thù cho Tri Bá ; Yêu Ly không những để cho người ta chặt tay mình đi , lại còn bằng lòng để cho người ta giắt cả vợ con mình để đền đáp ơn người tri kỷ . Những truyện như thế rất nhiều trong Ðông Chu liệt quốc . Do đó , nếu chữ "nghĩa" có thể đem lại đoàn kết để phục vụ chính nghĩa , thì nó lại hay bị giai cấp thống trị quí tộc lợi dụng mà mưu đồ lợi riêng .
Nhiều nhà phê bình trước đây đã chỉ trích sự mê tín , ma quỷ bói toán , nhân quả , báo ứng , trong sách "Tả truyện" . "Ðông Chu liệt quốc" không những thừa kế sự mê tín ấy mà còn tăng cường nó lên . Ngay trong hồi thứ nhất đã có đến bốn năm chuyện huyền hoặc : đứa trẻ mặc áo đỏ dạy bài hát chẳng lành , những cung phi có thai bốn mươi năm , người con gái hiện hình ở trai cung , oan hồn của Ðậu Bá và Tả Nho đòi mạng , v.v... Về sau lại còn vô số những chuyện điềm tốt , điềm xấu , quỉ thần , đồng cốt , yêu quái , v.v... Những chuyện hoang đường như thế thường thấy chép trong nhiều truyện cổ nói chung .
Tất nhiên ngày nay ta không tin những chuyện ấy là có thực mà hiểu rằng hoặc là do sự hạn chế của thời đại , tác giả "Ðông Chu liệt quốc" không thể có cái nhìn khoa học như chúng ta ngày nay đối với mọi vấn đề xã hội ; hoặc là ở dưới chế độ cũ mà vua chúa có uy quyền tuyệt đối , người cầm bút không thể nói ra sự thật nên phải mượn câu chuyện U vương nhà Chu mất nước ở mấy hồi đầu tiểu thuyết "Ðông Chu liệt quốc" , theo chúng tôi , đã được tô đậm màu sắc hoang đường , cũng không ngoàng Chu liệtý quốc", theo yếu ấy .
Về nghệ thuật tính của "Ðông Chu liệt quốc" thì trước hết phải nói đến vấn đề kết cấu . Từ khi Bình vương nhà Chu dời kinh đô sang Ðông đến Tần Thuỷ Hoàng thống nhất đất nước là một thời kỳ hắc ám , hỗn loạn , vô cùng phức tạp , có vô số những cuộc chính biến , tàn sát ; vô số những cuộc chiến tranh hoặc nhỏ , hoặc lớn , hoặc giữa vài ba nước , hoặc giữa hàng chục nước ; vô số những chuyện thi thố tài năng ; vô số những nhân vật xấu , tốt ; vô số những đời sống tư nhân có liên quan với những sự kiện chính trị lớn nhỏ . Tất cả những cái đó , phải được tổ chức lại , tổng hợp lại như thế nào ; trọng tâm , trọng điểm phải đặt ở những chỗ nào , những lúc nào ; các hồi , các đoạn phải được phân phối như thế nào , để cho cái mớ sự kiện và nhân vật ấy trở thành một chuyện hoàn chỉnh ? "Xuân thu" , "Tả truyện" , "Công dương" , "Cốc lương" thì tự thuật các sự kiện ấy theo thứ tự năm tháng (biên niên) "Quốc ngữ" , "Chiến quốc sách" thì ghi chép theo từng nước . Tư Mã Thiên thì đã biên tả theo từng mục , loại . Phùng Mộng Long đã giải quyết vấn đề kết cấu của "Ðông Chu liệt quốc" một cách sáng sủa và tự nhiên , đứng trên quan điểm chính thống mà tự thuật những sự biến chính trị và quân sự trên còn đường thay đổi "thiên mệnh" từ nhà Chu đến nhà Tần , bắt đầu từ khi nước Trịnh lấn át thiên tử và trải qua sự nghiệp bá chủ của nước Tề , nước Tấn , nước Sở , nước Ngô , nước Việt , rồi đến chính sách "hợp tung" và "liên hoành" của Tô Tần , Trương Nghi và kết thúc bằng sự thống nhất của nước Tần . Với những điều kiện phiền phức như đã nói trên đây , người ta không có thể đòi hỏi thêm nữa , mà người ta chỉ có thể khen ngợi tác giả đã khái quát được những sự kiện vô cùng rối ren ấy đạ hiến độc giả một bức hoạ bao la về một thời kỳ lịch sử cổ đại rộng lớn của Trung Hoa .
Một số nhân vật trong "Ðông Chu liệt quốc" được ngòi bút tác giả miêu tả rất sinh động , rất "nổi" . Ðọc "Ðông Chu liệt quốc" , không mấy ai quên được những nhân vật như Tín Lăng quân , Ngũ Tử Tư , Phạm Lãi , Lạn Tương Như , Kinh Kha , Chuyên Chư, Nhiếp Chính v.v... Chính là trên cơ sở những mâu thuẫn gay gắt của những sự kiện chính trị lớn, tác giả đã khéo thông qua ngôn ngữ và hành động mà xây dựng nên hình tượng nghệ thuật những nhân vật điển hình đó .
Người Ðông Chu thì thế , đến việc Ðông Chu thì tác giả lại khéo có ngòi bút tự sự thật gọn gàng, sáng sủa và đồng thời lại còn rất khẩn trương , cảm động nữa . Có những sự kiện rất phức tạp , quanh co , mà tác giả chỉ cần nửa hồi để thuật lại một cách rất mạch lạc, trôi chảy, như đoạn viết về bốn họ tranh quyền nhau ở nước Tấn . Lại có những sự việc kéo dài trong đó quan hệ giữa các nhân vật biến hoá không ngừng , cục diện phát triển như đợt sóng , lên lên xuống xuống , tầng tầng lớp lớp , như chuyện Sái Túc nước Tống lập vua , chuyện Trung Nhĩ nước Tấn lánh nạn , chuyện Ngũ Tử Tư nước Sở báo thù v.v... Những đoạn ấy kéo dài nhiều hồi và ngòi bút tự thuật của tác giả đã khéo dẫn dắt người đọc một cách tài tình hết hồi nọ sang hồi kia , những người đi đường xa mỗi bước lại thấy hoa thơm cỏ lạ , mỗi lúc một thấy phong cảnh đổi mới đột ngột , bất kỳ .
Lời văn "Ðông Chu liệt quốc" tuy không uyên thâm , điển nhã như Văn Tả truyện , văn Sử ký , nhưng có ưu điểm là cụ thể , rõ ràng , dễ hiểu . Nhiều đoạn rất hàm súc, nhiều đoạn lại rất tình tứ , nên thơ . Như đoạn viết về hai anh em công tử Thọ nước Vệ :
"... Công tử Thọ liền bước sang thuyền Cấp Tử , rót một chén rượu để mời , nhưng chưa kịp nói gì thì nước mắt đã ứa ra , rỏ xuống chén rượu . Cấp Tử vội vàng đỡ lấy mà uống . Công tử Thọ nói : "Chén rượu này đã bẩn mất rồi !" Cấp Tử nói : "ấy , chính anh uống cái tình của em ở trong ấy !" Công tử Thọ gạt nước mắt nói : "Chén rượu hôm nay là chén rượu vĩnh biệt của anh em ta . Nếu anh nghĩ đến tình em thì xin gắng uống cho thật nhiều...".
Và đoạn tả Lộng Ngọc thổi sáo đêm trăng :
"... Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh , thấy trời tạnh mây trong , trăng sáng như gương , gọi thị nữ đốt một nén hương , rồi đi lấy cái ống sinh làm bằng ngọc bích , đến bên cửa sổ mà thổi . Tiếng sinh véo von vọng lên vòm trời , gió hây hây thổi , bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa . Lộng Ngọc không khỏi băn khuăn , bèn ngừng lại , không thổi nữa , có để nghe xem sao . Tiếng họa cũng im đi , nhưng dư âm còn lẽo đẽo không dứt . Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió , như một người vừa đánh mất vật gì . Chốc đã nửa đêm , trăng xế hương tàn , nàng đem ống sinh để trên đầu giường , gắng gượng đi nằm .
* *
Ở cuối đời Minh , sau bộ "Ðông Chu liệt quốc chí" còn xuất hiện hơn hai mươi bộ tiểu thuyết lịch sử , như "Nam Bắc sử diễn nghĩa" , "Tổng truyện" , "Tây Hán diễn nghĩa" , "Lưỡng Tấn diễn nghĩa" , v.v... Về giá trị văn học và phạm vi ảnh hưởng thì "Ðông Chu liệt quốc chí" đứng đầu các bộ tiểu thuyết ấy , theo sự nhận định của các nhà phê bình xưa và nay .
Trân trọng giới thiệu bộ tiểu thuyết "Ðông Chu liệt quốc" với các bạn đọc .
Từ lúc vua Trụ mất nước Võ-vương lập lên nhà Châu, dân chúng sống trong cảnh thái-bình thịnh trị.
Các triều vua kế tiếp như Thành-vương, Khương-vương, đều nhờ lấy đức trị dân, lại được các bậc trung thần như: Châu-công, Thiệu-công, Tất-công, Sử-Dật, hết lòng phò tá, lên cơ-nghiệp vững-bền.
Qua đến đời vua thứ tám là Di-vương, cơ-nghiệp nhà Châu bắt đầu suy-yếu.
Ðến đời vua thứ chín là Lệ-vương lại càng nhu-nhược hơn. Trong nước nổi loạn, nịnh-thần thí vua, toan tiếm ngôi may nhờ có Châu-công và Thiệu-công, đồng tâm hiệp lực, lập Thái-tử Tịnh lên kế vị.
Thái-tử Tịnh lên ngôi xưng hiệu là Tuyên-vương, trong thì lo sửa sang triều-chính chiêu-đãi hiền-thần, ngoài thì lo vỗ an bá-tánh, vì thế các bậc hiền-tài lúc bấy giờ như Phương-Chúc, Thiệu-Hổ, Doãn-kiết-phủ, Châu-Bá, Trọng-sơn-phù, đều dốc lòng bảo giá. Tuyên-vương đem lại thái bình cho nhà Châu được mười chín năm thì giặc Khương-nhung dấy-loạn, vua phải ngự-giá thân-chinh.
Thế giặc quá mạnh, Tuyên-vương thua luôn may trận, quân-sĩ hao hụt rất nhiều, bèn trở về Thái-nguyên kiểm-điểm dân số để mộ thêm binh lính.
Khi đi ngang qua một khu phố nhỏ gần Kiểu-kinh có một bầy trẻ xúm nhau vỗ tay hát:
Thỏ lên, ác lặn non mờ,
Túi cơ cung yểm bơ phò nước non.
Vua nghe câu hát lấy làm tức giận, truyền quân vây bắt.
Bọn trẻ cả sợ chạy tán loạn, chỉ bắt được có hai đứa.
Vua quát hỏi:
- Ai bày cho chúng bay hát như thế ?
Hai đứa trẻ run lẩy bẩy, cúi đầu tâu:
- Cách đây ba hôm, có một đứa nhỏ mặc áo đỏ, đến tại chợ nầy dạy chúng con hát. Nhưng chẳng biết vì sao, cùng một lúc, cả trẻ con trong khu phố đều biết các câu hát ấy.
Vua lại hỏi:
- Hiện bây giờ thằng bé mặc áo đỏ ấy ở đâu ?
Hai đứa bé đáp:
- Chẳng biết nó đi đâu, từ ấy đến nay chúng con không còn gặp nó nữa.
Vua Tuyên-vương cau mày, suy nghĩ rồi truyền đuổi hai đứa bé ấy đi. Lại khiến quan Tư-thị loan-báo khắp khu-phố cấm không cho con nít hát như thế nữa. Nếu đứa trẻ nào còn hát cha mẹ nó phải chịu tội. Kế đó vua ngự-giá về cung.
Sáng hôm sau, lâm triều bá quan vào chầu đủ mặt, vua bèn thuật lại câu hát ấy, và hỏi có ai đoán được hư thiệt không ?
Quan Lễ-Bộ Triệu-hổ quỳ tâu:
- Tâu Bệ-hạ, cây yểm là thứ cây dâu núi, dùng làm cung, còn cơ là loại cỏ dùng đan giỏ đựng tên. Cứ theo câu hát ấy mà bàn thì chắc trong nước sẽ bị nạn binh-đao !
Tuyên-vương đưa mắt nhìn các quan cận-thần hỏi ý-kiến.
Quan Thái-tế Trọng-sơn-phủ quỳ tâu:
- Theo ý Ngu-thần thì cung tên biểu hiệu cho binh-đao, nay Bệ-hạ đang muốn kiếm dân, bắt lính đánh dẹp rợ Khương, điềm ấy e ảnh hưởng không lành đến dự-tính của Bệ-hạ.
Tuyên-vương gật đầu hỏi lại:
- Thế thì thằng con nít mặc áo đỏ là ai ?
Thái-sư Bá-dương-phụ tâu:
- Chúng con nít mặc áo đỏ thuộc hỏa, còn sao Huỳnh-hoặc cũng thuộc hỏa. Ấy là ông trời muốn răn vua, nên khiến sao Huỳnh-hoặc biến ra đứa trẻ đó.
Tuyên-vương nghe nói cho là phải, bèn phán:
- Vậy bây giờ trẫm tha tội cho Khương-nhung, rút quân ở Thái-nguyên về, truyền đốt tất cả số cung tên lưu trữ trong kho, như thế có tránh được điềm họa kia chăng ?
Dương-phụ lại quỳ tâu:
- Hạ-thần xem thiên văn thấy điềm dữ ứng tại cung vua, chớ không can chi đến bờ cõi. Hơn nữa, luận theo câu hát "thỏ lên, ác lặn" có nghĩa là âm thạnh, dương suy, hạ thần e rằng việc nước sẽ do tay đàn bà quấy rối.
Tuyên-vương nói:
- Trong cung có Khương-hậu là kẻ hiền-đức, cai quản tam-cung, lục-viện. Mỗi một cung phi đều do tay Khương-hậu chọn lựa, làm sao có thể xảy ra tai họa ấy được ?
Dương-phụ tâu:
- Tâu Bệ-hạ, ý trong câu hát không phải là việc bây giờ, xin Bệ-hạ cứ thi nhân, bố đức, may ra việc dữ trở nên lành, còn cung tên trong kho chẳng nên đốt làm chi.
Tuyên-vương nghe xong, lòng rất nghi-hoặc, bèn bãi chầu lui vào hậu cung, đem các việc thuật lại cho Khương-hậu nghe.
Khương-hậu tâu:
- Tâu Bệ-hạ, điềm dữ vừa ứng, trong cung lại có việc lạ lùng, thần-thiếp định tâu cùng Bệ-hạ.
Tuyên vương ngơ-ngác hỏi:
- Chẳng hay trong cung lại có việc gì chẳng lành sao ?
Vừa rồi trong cung có một phi-tần của Tiên-vương để lại, tuổi ngoài năm mươi, có thai đã bốn mươi năm trời, đêm qua lại sanh ra một gái.
Tuyên-vương giật mình hỏi:
- Ðứa con gái ấy bây giờ ở đâu ?
Khương-hậu nói:
- Thần-thiếp cho là quái-thai, nên đã sai người đem vứt xuống sông Thanh-thủy, cách đây vài mươi dậm.
Vua cho là chuyện lạ, bèn đòi người cung-phi già đó đến hỏi tự sự.
Người cung-phi già được lệnh, đến quỳ móp xuống đất, tâu rằng:
- Tiện tỳ được nghe nói vào đời Hạ-kiệt, tại Bao-thành có thần-nhân hóa ra hai con rồng sa xuống giữa sân triều, nhả nước dãi ra rồi kêu vua Kiệt nói: "Ta là hai vị Ðế-vương của Bao-thành đây ". Vua Kiệt cả sợ, muốn giết hai con rồng ấy, song quan Thái-sư bói quẻ và tâu rằng: Thần nhân hạ giáng, ắt có điềm lành, xin Bệ-hạ hãy lấy nước dãi mà để dành. Vì nước dãi là tinh-khí của rồng, để dành trong cung ắt đặng hưởng phúc. Vua Kiệt nghe theo truyền đem mâm vàng hứng lấy nước dãi, đựng vào một chiếc hộp son, cất kỹ trong kho. Vừa cất xong thì trời nổi mưa, hai con rồng bay đi mất. Từ ấy đến nay đã hơn sáu trăm bốn mươi bốn năm, qua nhà Hạ, đến nhà Ân, rồi đến nhà Châu ta thêm nữa mà vẫn chưa ai dám mở hộp ấy. Ðến đời Tiên-vương, chiếc hộp ấy có hào quang rực rỡ, quan giữ kho trông thấy tâu lại với Tiên-vương. Tiên-vương truyền đem sổ bộ tra cứu, mới hay trong hộp đó đựng nước dãi rồng, bèn truyền mở ra xem. Rủi thay Tiên-vương sơ ý làm rơi chiếc hộp xuống đất, nước dãi đổ lai láng rồi hóa thành một con giãi nhỏ chạy tung tăng khắp sân triều. Nội-thị theo đuổi bắt con giãi kia chạy vào cung rồi biến mất. Lúc đó tiện-tỳ mới lên mười hai tuổi. Vì đạp nhằm đầu con giãi ấy mà thọ thai. Tiên-vương lấy làm lạ, đem tiện tỳ giam vào lãnh cung. Ðến nay hơn bốn mươi năm trời mới sanh ra một gái ! Nội-thị không dám giấu, vào tâu với Hoàng-hậu. Hoàng-hậu cho là quái-thai nên đã đem vất xuống sông, xin Bệ-hạ rộng lòng tha cho tiện-tỳ khỏi tội.
Tuyên-vương nghe xong, lo lắng thở đài, phán:
- Ấy là việc đời trước, có can chi đến ngươi mà phải sợ sệt.
Nói xong, vội sai nội thị đến bờ sông Thanh-thủy xem đứa bé ấy thể nào.
Một lát sau, nội thị trở về tâu:
- Tâu Bệ-hạ, đứa bé ấy đã trôi đi đâu mất tích.
Nhà vua an lòng, trở vào hậu cung an nghĩ.
Sáng hôm sau vua cho vời quan Thái-sư Dương-phụ đến kể việc nước miếng rồng cho Dương-phụ và bảo:
- Nay đứa bé ấy đã chết rồi, khanh hãy chiếm một quẻ xem oan nghiệt đã dứt chưa ?
Dương-phụ vâng mạng, gieo quẻ rồi dâng lời đoán cho Tuyên-Vương xem.
Lời đoán rằng:
- Cười cười khóc khóc, dê mắc lưới, ngựa sa lầy. Sợ thay ! Sợ thay ! Nước non tang-tóc.
Vua không hiểu ý, hỏi lại Dương-phủ tâu rằng:
- Dê chỉ về Mùi, ngựa ứng về Ngọ. Cười cười, khóc khóc nói về chuyện vui buồn. Quẻ nầy ứng qua năm Ngọ, năm Mùi sẽ có chuyện vui buồn đó. Theo dự đoán của hạ thần, tuy yêu-quái ra khỏi cung nhưng chưa trừ đặng.
Tuyên-vương nghe tâu, mặt buồn dàu-dàu, hạ chiếu truyền rao khắp dân chúng, ai tìm ra đứa con nít ấy, bất kỳ sống thác đều được thưởng ba trăm tấm lụa, ngược lại ai giấu diếm mà nuôi, sẽ bị xử-tử toàn gia.
Vua truyền giao việc nầy cho quan Thượng-đại-phu Ðỗ-bá xem xét.
Lại ra lệnh cho quan Ðại-phu Tả-nho nghiêm cấm khắp nơi, từ thành-thị đến thôn quê không ai được làm cung bằng gỗ yểm và giỏ tên bằng cỏ cơ. Ai trái lệnh được quyền bắt chém.
Nhân-dân nghe lệnh, nhất nhất tuân theo. Duy có các miền xa vắng, lệnh của nhà vua chưa được ban bố, nên cách hai ngày sau có một người đàn bà xách mấy cái túi tên bằng cỏ cơ, và một người đàn ông vác mấy cây cung bằng gỗ yểm đến chợ bán.
Quân tuần trông thấy áp lại bắt, nhưng người đàn ông lanh chân chạy thoát.
Chúng dẫn người đàn bà vào nạp cho quan Ðại-phu Tả-nho.
Tả-nho nghĩ thầm:
- Hai vật nầy đúng theo lời hát của lũ trẻ rồi. Vả lại, quan Thái-sư bảo là có nữ họa, thế thì người đàn-bà nầy là mối họa lớn của quốc-gia, ta phải vào triều phục chỉ.
Nghĩ như vậy, Tả-nho giấu việc người đàn ông bỏ trốn, chỉ dắt người đàn bà vào triều tâu nạp.
Nhà vua truyền đem tội nhơn xử-tử, và đem tất cả các túi tên ra chợ đốt đi để răn dân chúng.
Trong lúc đó, ngươi đàn ông kia hoảng vía chạy trối chết, không hiểu cớ gì quan quân lại đón bắt vợ chồng mình. Mãi đến ngày hôm sau, anh ta mới biết lệnh cấm, và nghe đồn người đàn bà bán giỏ tên bị xử tử, lòng nóng như đốt, anh ta than thầm:
- Ôi ! vợ ta đã bị giết rồi, giờ đây ta biết nương tựa vào đâu ! đau đớn thay.
Than rồi, anh ta khóc rống lên, nhưng sợ khóc lớn quan quân hay được, bèn tìm nơi vắng vẻ để khóc cho thỏa lòng.
Anh ta đi lần đến mé sông Thanh-thủy, đôi mắt đỏ ngoe, dòng châu lả chả, bỗng thoáng thấy đàng xa có bầy chim kêu rả-rít, xúm nhau ngậm một chiếc chiếu cuốn tròn, nổi trên sông, mà đem vào bờ.
Lấy làm lạ, anh ta chạy đến giở chiếc chiếu ra xem, thì thấy trong đó gói một đứa bé gái vừa mới lâm bồn (1).
Anh ta nghĩ thầm:
- Con ai đem bỏ như vầy. Ðã không chết mà lại có bầy chim cứu nạn, ắt là một quí-nữ. Ta đem về nuôi để ngày sau nhờ cậy.
Nghĩ như vậy bèn cỡi áo gói đứa bé ôm vào mình, rồi thẳng đường sang Bao-thành lánh nạn.
Từ khi giết người đàn-bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ, Tuyên-vương cho rằng điềm họa trong nước đã diệt được, nên không còn lo ngại gì nữa. Tuy nhiên, cứ cách vài năm nhà vua lập đàn tế-lễ nơi Thái-miếu (2), ăn chay nằm đất để cầu phúc.
Năm ấy vào năm thứ bốn mươi ba, vua ngủ nơi trai-cung (3), trống canh hai vừa đổ, xảy có một người con gái, dung nhan đẹp đẽ từ phía Tây xăm xăm đi lại.
Vua cả giận nghĩ rằng:
- Ðàn bà con gái sao dám đến chỗ chay cấm, bèn quát lên một tiếng hô nội thị đến bắt.
Vua gào rát cổ, mà vẫn không thấy một tên nội-thị nào.
Người đàn bà kia cứ ung-dung đi vào Thái-miếu, góp nhặt các bài-vị bó thành một bó, rồi bước ra cười ba tiếng, khóc ba tiếng, đoạn chậm rãi tiến về hướng Ðông (4).
Vua bèn rượt theo, bỗng giật mình thức dậy mới biết là chiêm-bao, trong lòng kinh hãi, đòi Thái sư Bá-dương-phụ đến hỏi.
Bá-dương-phụ tâu rằng:
- Lời đồng-dao (5) cách đây ba năm Bệ-hạ đã quên rồi sao ?
Hạ-thần tiên đoán nhà Châu sẽ bị nữ-họa. Nay yêu-khí chưa dứt, mà người đàn bà ấy lại khóc ba tiếng, cười ba tiếng, thì đúng theo quẻ hạ thần đã tiên đoán vậy.
Tuyên-vương lo lắng hỏi:
- Ngày trước trẫm đã giết người đàn bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ rồi, như thế chưa trừ đặng câu đồng-dao ấy hay sao ?
Bá-dương-phụ tâu.
- Tâu Bệ-hạ, đạo trời mầu nhiệm lắm, đâu phải dễ gì giết một người đàn bà hèn mọn kia mà có thể làm biến-đổi được thiên-cơ (6).
Vua nghe nói lòng buồn rã rượi, ngồi đứng không an, giây lâu sực nhớ đến việc ba năm trước có sai Ðỗ-bá truy tầm đứa bé thả trôi sông, sao đến nay chưa nghe kết quả, bèn đòi Ðỗ-bá vào hỏi.
(1) Lâm bồn: mới sanh.
(2) Thái-miếu: nơi thờ-phượng các Tiên-vương.
(3) Trai-cung: nhà chay.
(4) Ấy là điềm ứng cho nhà Châu phải dời qua hướng Ðông.
(5) Ðồng-dao: câu hát của con nít.
(6) Thiên cơ: máy trời, sự mầu nhiệm của tạo hóa.
Ðỗ-bá quỳ tâu:
- Tâu Bệ-hạ, hạ-thần hết sức tìm kiếm, nhưng chẳng thấy. Khắp trong dân gian cũng không ai tìm được xác, chứng tỏ quái-thai kia đã bị chìm mất tích rồi. Vả lại Bệ-hạ đã xử-tử người đàn bà bán cung, thì lời đồng-dao đâu còn linh-ứng ? Nếu cứ tra xét thì e động đến dân-tình.
Tuyên-vương cả giận mắng:
- Ðã không làm được việc, lại không phục-chỉ, rõ là một đứa khi quân.
Bèn sai võ-sĩ dẫn Ðỗ-bá ra pháp-trường xử trãm.
Giữa lúc đó, quan Hạ-đại-phu Tả-nho, vốn là bạn thân của Ðỗ-bá, thấy vội quỳ móp trước sân triều can gián:
- Tâu Bệ-hạ, đời vua Nghiêu bị lụt chín năm, đời vua Thang nắng hạn đến bảy năm, mà chẳng hề sanh biến loạn. Nay chỉ vì giết không được một đứa con nít mà Bệ-hạ xử-tử một đại thần e các lân-bang chê cười, xin Bệ-hạ xét lại.
Tuyên-vương mặt giận phừng phừng, nói:
- Nếu vì tình bạn mà can gián, thì ngươi qua đã trọng bạn khinh vua.
Tả-nho tâu:
- Vua phải bạn trái thì nên theo vua. Bạn phải vua trái thì nên theo bạn. Tội Ðỗ-bá không đáng gì, mà Bệ-hạ đem giết, thiên hạ sẽ cho Bệ-hạ là bất minh. Hạ thần biết mà không can gián, thiên-hạ sẽ cho Hạ-thần là bất trung. Nếu Bệ-hạ giết Ðỗ-bá, hạ thần xin cùng chết.
Tuyên-vương nói:
- Trẫm chém Ðỗ-bá như chém cỏ rác, ngươi chớ nhiều lời làm chi.
Nói xong, nạt võ-sĩ đem Ðỗ-bá ra chém.
Còn Tả-nho về đến nhà cũng tự-vận mà thác.
Người sau, cảm lòng trung nghĩa, lập miếu nơi Ðồ-lăng mà thời gọi là miếu Tả-tướng-quân.
Con trai Ðỗ-bá là Thấp-thúc trốn qua nước Tấn, lành đến chức Sĩ-sư, sau con cháu đổi ra họ Phạm.
.
Khi Tuyên-vương nghe tin Tả-nho tự vận, lòng hối-ngộ, ăn ngủ không yên, mà sanh bệnh, bỏ cả việc triều chính.
Khương-hậu thấy vậy cũng không dám phàn nàn.
Một hôm, vào tiết mùa thu, Tuyên-vương muốn đi săn bắn để giải muộn bèn truyền Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ sắm sửa xe giá lên đường. Hai bên tiền hô, hậu ủng thẳng đến Ðông-giao.
Ðến nơi, vua truyền hạ trại, và dặn dò quân-sĩ không được đạp phá mùa màng, làm chấn động lê dân. Ðoạn truyền lịnh hễ ai bắt được nhiều thú rừng sẽ được trọng thưởng.
Quân-sĩ đua nhau bủa vây khắp chốn. Lòng vua rất đẹp.
Chẳng bao lâu, mặt trời đã gác non Ðoài, vua truyền bãi cuộc săn bắn.
Quân sĩ tuân lệnh bao nhiêu phi-cầm tầu thú đều buộc trói sẳn sàng hộ giá về cung.
Ði chưa dược ba bốn dặm đường, nhà vua mặt mày bỗng xây xẩm, rồi trước mắt thoáng thấy một cổ xe nhỏ từ đàng xa tiến đến.
Trên xe có hai người, tay cầm cung tên, hô lớn:
- Bệ-hạ vẫn được mạnh giỏi chứ.
Tuyên-vương nhìn kỹ thấy hai người đó là Ðỗ-bá và Tả-nho, thất kinh gọi kẻ tả-hữu hỏi thì chẳng ai thấy gì hết.
Chiếc xe nhỏ kia cứ lởn vởn mãi trước mắt, vua cả giận hét:
- Phản thần ! Dám đến đây phạm giá sao ?
Nói xong, rút bửu kiếm ra chém.
Bỗng nghe có tiếng Ðỗ-bá và Tả-nho mắng lại.
- Hôn quân, đã không biết sửa mình còn chém người vô tội !
Hôm nay khí số hôn quân đã mãn, hãy lo mà đền mạng cho sớm.
Dứt lời, trương cung nhằm ngay ngực nhà vua bắn tới.
Tuyên-vương hét lên một tràng thất thanh rồi té xỉu xuống.
Các quan hộ giá xúm lại đỡ dậy, lo thuốc men cứu chữa.
Nhà vua ôm ngực rên la cho đến lúc về tới cung.
Ai nay đều sợ sệt, nhìn nhau không biết nguyên-do nào xảy ra như vậy.

Hồi sau

Bán sạc cáp, linh kiện máy tính
Anh em cùng cài Pi Network đào tiền ảo nhé, nhập mã mời "kiemhieptruyen" lấy ngay 1 Pi.
Trước khi thanh toán tiền mua hàng thì nhấn hộ dùm mình link nầy nhé: shopee ở đây còn lazada ở đây.